Khu di tích thánh đia Mỹ Sơn cách kinh đô Trà Kiệu 30 km về phía Tây, cách Đà Nẵng 69 km về hướng Tây - Tây Nam. Quần thể kiến trúc nằm trong quần thể thung lũng xinh đẹp, có núi bao bọc bốn bề, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đây là khu di tích tôn giáo vĩ đại nhất của người Chămpa, được khởi công xây dựng từ thế kỷ 4 với quần thể hơn 70 khu đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc khác nhau. Tháng 12/1999, Khu di tích thánh đia Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Đường vào khi di tích thánh đia Mỹ Sơn
Thánh đia Mỹ Sơn chịu ảnh huởng rất lớn Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chứ Phạn cổ trên các tấm bia.
Chữ Phạn cổ - Khu di tích thánh đia Mỹ Sơn
Vào năm 1898, di tích thánh đia Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả người Pháp tên là M.C Paris. Hai năm sau, 2 nhà nghiên cứu của Viện Viễn đông Bác cổ là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo cổ học H. Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903 - 1904 những tài liệu cơ bản nhất về bia ký và nghệ thuật kiến trúc thánh đia Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức công bố.
Thánh đia Mỹ Sơn đã được trùng tu bởi E.F.E.O (Ecole Francaise d’Extreme Orient) trong thời gian từ 1937 đến 1944. Năm 1937, các nhà khoa học Pháp bắt đầu có những công cuộc trùng tu tại Mỹ Sơn. Năm 1937-1938, ngôi đền A1 và các ngôi đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Năm 1939, nhằm để nghiên cứu các di tích của nhóm A, B, C, D khỏi sự phá huỷ của dòng nước (đã phá sập tháp A9), người Pháp đã cho xây một con đập và đào một dòng chảy xuyên núi để đổi hướng dòng chảy. Nhưng năm 1946, sau một trận lũ lớn, con đập này đã bị vỡ, nước chảy trở lai theo dòng cũ như ngày hôm nay chúng ta thấy.
Mỹ Sơn có một giai đoạn yên ắng từ năm 1954 đến 1964. Khi đó cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chưa đến giai đoạn khốc liệt. Nhưng từ năm 1965 đến 1972, khi khu vực Duy Xuyên và Quảng Nam trở thành một chiến trường, di tích Mỹ Sơn cũng bị thiệt hại cùng với xóm làng mà nó mang tên. Nặng nề nhất là trận bom năm 1969 đã làm biến dạng hình hài của khu di tích. Hầu hết các đền tháp đã bị sụp đổ hoặc hư hại nặng nề. Sau chiến tranh để phục vụ cho việc nghiên cứu, phục hồi di tích, chúng ta đã tiến hành rà phá bom mìn ở khu vực này. Mỹ Sơn sau chiến tranh là sự ngổn ngang gạch đá, cần sự trợ giúp của nhiều người. Đến năm 1975, trong số 32 di tích còn lại, chỉ có khoảng 20 đền tháp còn giuữ được giáng vẻ ban đầu.
Năm 1980, trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam - Ba Lan, tiểu ban phục hồi di tích Chămpa được thành lập do cố kiến trúc sư Kazimiers Kwiat Kowski (1944-1977) phụ trách. Từ 1981 đến 1985, các đền tháp nhóm B C D được dọn dẹp và gia cố. hàng ngàn mét khối gạch vỡ, đất đá được đưa ra khỏi khu vực và sắp xếp lại. Nhờ vậy mà khu vực đền tháp này có được dáng vẻ như ngày hôm nay. Sau đó 1 phần nhóm A được dọn dẹp và gia cố. Mỹ Soưn hiện nay vẫn còn rất nhiều việc để làm nhưng được như ngày hôm nay là công sức của những con người của năm 1980 đầy khó khăn. Cố kiến trúc sư người Ba Lan mà mọi người hay gọi bằng cái tên thân mật Kazik đã để lại một tình cảm sâu đậm trong di tích và con người tại Mỹ Sơn.
1. Lịch sử hình thành di tích thánh địa Mỹ Sơn
Ngày xưa, lãnh thổ Vương quốc Chămpa trải dài từ Đèo Ngang - Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay. Champa có 2 bộ lạc: bộ lạc dừa ở phía Bắc, từ Thừa Thiên đến đèo Cù Mông. Còn lại bộ lạc Cau từ Cù Mông đến Bình Thuận, Từ hai bộ lạc này đã hình thành những tiểu quốc đầu tiên rồi sau đó vương quốc Champa ra đời. Về kinh tế, người Chăm sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Họ còn biết cách khai thác hương liệu, trầm hương, hồ tiêu, quế đêr xuất khẩu ra nước ngoài. Qua biết bao thăng trầm của lịch sử, vào thế kỷ thứ IV, dưới triều vua Bhahadravarman,đã cho xây dựng kinh đô ở Trà Kiệu. Sau khi kinh đô đã được xây dựng xong, ông nghĩ ngay đến việc thành lập trung tâm tôn giáo phục vụ cho kinh đô đó. Và Khu di tích Mỹ Sơn đã ra đời.
Mỹ Sơn từng chứng kiến thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ cũng như những biến động của vương quốc Champa cổ đại. Mỹ Sơn không phải là kinh đô mà là nơi thờ đấng thần linh tối cao. Thao quan niệm Ấn Độ giáo, nơi thờ cúng là nơi thâm nghiêm. Vì lẽ đó mà Mỹ Sơn được xây dựng giữa một thung lũng được bao bọc bởi vùng núi non hiểm trở - vùng Amaravati, tên gọi xưa của vùng Quảng Nam - Đà Nẵng được văn bia nhắc đến như trái tim của vương quốc Champa trong nhiều thế kỷ. Người Chăm cho đây là mảnh đất thiêng, nhọn núi Đại Sơn (Mahabavata) cũng là một ngọn núi thiêng. Con suối Mỹ Sơn cũng được coi là con suối thiêng mà dòng suối này là nhánh đổ ra sông Thu Bồn.
Kinh đô Trà Kiệu thất thủ khi người Chăm sử dụng nơi này là nơi trấn ngự. từ những yếu tố này người Chăm cho xấy dựng đền thờ đầu tiên vào cuối thế kỷ IV bằng gỗ ở Mỹ Sơn để thờ thần Sisana Bhahadravana - tên thần là sự kết hợp tên các vị vua lúc bấy giờ là Bhahadravaman và thần Siva. Sau vị vua này, các vị vua khác lên ngôi và tiếp tục cho xây dựng đền tháp. Trước hết là thờ cúng thần linh, thứ hai là muốn tỏ uy quyền của mình. Dần dần từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XIII, Mỹ Sơn trở thành một quần thể gồm khoảng 70 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Cuối thế kỷ XIII, do hai bộ lạc Cau và Dừa không thống nhất với nhau về quyền lợi cũng như phong tục tập quán. Trong nước đã xảy ra cuộc nội chiến. Cũng như thời điểm này các nước láng giềng như Trung Hoa, Đại Việt, Khmer đã tiến hành các cuộc chiến tranh với Chămpa. Chinh vì những lý do đó người Chămpa đã dời kinh đo xuống phía Nam ở vùng bình Thuận ngày nay. Sau thế kỷ thứ XIII, Mỹ Sơn hầu như bị bỏ hoang, không ai xây dựng đền đài cũng như tiếp tục thờ cúng ở Mỹ Sơn.
2. Kiến trúc di tích thánh địa Mỹ Sơn
Bằng vật liệu gạch nung và đá sa thạch, trong nhiều thế kỷ, người Chăm đã dựng lên một quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên hoàn: Đền chính ( Kalan) thờ Linga - Yoni biểu tượng của năng lực sáng tạo, bên cạnh nhưng tháp chính là những tháp thờ nhiều vị thần hoặc những vị vua đã mất. Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày nay vẫn còn để lại những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ thuật dân tộc Chăm, Những kiệt tác đánh dấu một thời huy hoàng của văn hóa kiến trúc Chămpa nói riêng cũng như Đông Nam Á nói chung.
Linga và yoni tại di tích thánh địa Mỹ Sơn
Thần Brahama - di tích thánh địa Mỹ Sơn
Du khách tham quan tại di tích thánh địa Mỹ Sơn
3. Chất liệu và kỹ thuật xây dựng di tích thánh địa Mỹ Sơn
Với việc quan sát kết cấu của tháp Chăm là những viên gạch đỏ chồng khít lên nhau, không thấy mạch hồ kết dính đã hình thành nên những giả thuyết khác nhau về chất liệu và kĩ thuật xây dựng những ngôi đền tháp Mỹ Sơn:
- Đền tháp Mỹ Sơn được xây từ những viên gạch cổ nhẹ hơn gạch hiện tại cùng kích thước 1,3 lần. Gạch được nung non hơn nhưng tính chất về sức bền vật liệu lại cao hơn
Có những huyền thoại cho rằng: Người Chăm xây tháp bằng gạch mộc, dẻo gọt nó lên, rồi nung một khối tháp trong ngọn lửa khổng lồ.
- Các chuyên gia Ba Lan lại khẳng định rằng người Chăm đã dùng gạch nung sẵn gắn với nhau bằng vữa đất sét và sau đó toàn bộ tháp được nung lại.
- Một số nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật (nhựa xương rồng và mật mía hoặc nhựa cây dầu rái) để dán những viên gạch với nhau hay có người thì nói họ dùng lá cây nghiền ra bôi vào sau đó để cho khô rồi xây tiếp.
Có những nghiên cứu gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hợp một số biện pháp kĩ thuật khác nhau để xây tháp: dùng các viên gạch có độ lõm ở mặt tiếp xúc, khi xây lên không thấy vữa ở giữa các viên gạch còn ở giữa có lớp vữa dày; mài các viên gạch trong nước cho thật khít nhau rồi xếp lại cho bột gạch tự kết dính nhau trong sức nặng của trọng lực của phần trên tháp; dùng các viên gạch có mặt lõm mặt lồi theo kiểu âm dương, khi xếp lên tự thân nó liên kết với nhau.
Đền tháp Chăm ở di tích thánh địa Mỹ Sơn không chỉ chứa chất những giá trị văn hoá làm say đắm long người mà còn chứa cả những giá trị kỹ thuật mà công nghệ thời nay vẫn chưa thể lí giải được. Đến Mỹ Sơn, nhìn một mảng tường để biết rằng chúng ta còn phải học nhiều.
Một bức tường tại di tích thánh địa Mỹ Sơn
4. Bố cục di tích thánh địa Mỹ Sơn:
Để tiện hơn cho việc nghiên cứu, Pamentier đã chia đền tháp Mỹ Sơn thành 10 nhóm: A, A', B, C, D, E, F, G, H, K. Mỗi nhóm lại có từ một đến nhiều kiến trúc. Trong đó:
. Nhóm A và A' được gọi là khu tháp chùa với 19 di tích.
. Nhóm B C D được gọi là khu tháp Chợ với 12 di tích.
. Nhóm E và F được gọi là khu tháp Bàn Cờ với 4 di tích.
Sơ đồ di tích thánh địa Mỹ Sơn
NHÓM THÁP B - di tích Mỹ Sơn:
- Tháp B1: biểu tượng của núi Mêru, là trung tâm vũ trụ, nơi tập trung các vị thần. Tháp có thờ thần Siva. Có một cửa ra vào, các ô quanh tường là nơi thắp đèn cầy.
- Tháp B3: thờ thần Skanda - thần chiến tranh.
- Tháp B4: thờ thần Ganesa - con thần Siva, có đầu voi mình người. Đây là thần may mắn và hạnh phúc.
- Tháp B5: quay về hướng Bắc, thờ thần Kover, thần tài lộc. Tháp cũng là nơi giữ đồ hành lễ.
- Tháp B6: bên trong có một hồ nước thánh dùng trong các nghi lễ.
- Tháp B2: là tháp cổng đối diện với tháp chính.
Kế nữa là nhà tĩnh tâm, nơi các người đi hành lễ tĩnh tâm, chuẩn bị cho nghi lễ. Xung quanh B1 có nhiều miếu phụ. Mỗi miếu phụ thờ một vị thần: thần mặt trời, Kubera...mỗi vị thần giữ một hướng bảo vệ tháp chính. Những tháp đó ngày nay không còn, chỉ còn lại B7.
Sơ đồ nhóm B - thánh địa Mỹ Sơn
Tháp B6 - Thánh địa Mỹ Sơn
Sơ đồ tháp nhóm C - thánh địa Mỹ Sơn
Bố cục các tháp trong khu di tích gồm một tháp chính, một tháp cổng và một tháp đón khách hành hương gọi là nhà tịnh tâm. Tháp chính luôn ở vị trí trung tâm bởi nó là biểu tượng của trung tâm vũ trụ - nơi hội tụ thần linh. Những tháp phụ biểu tượng cho các lục địa, những châu lục.
Hướng các tháp cũng mang nhiều ý nghĩa: phần lớn các tháp có cửa quay về hướng Đông - phương mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của thần linh. Nhưng cũng có nhiều tháp quay về hướng Tây hoặc cả hai hương Đông - Tây như khu A, E, F thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên. Hướng Bắc đem lại của cải vật chất cho vương quốc Champa. Tháp hương Bắc để thờ thần tài lộc. Riêng hướng Nam các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm được ý nghĩa của nó.
Phong cách tháp tại Thánh địa Mỹ Sơn
Phong cách nghệ thuật các tháp Chăm là hệ thống các phong cách xây dựng trong các thời kỳ liên tiếp nhau từ thế kỷ 7 đến thể kỷ 17 ở miền Trung Việt Nam. Được nhà nghệ thuật học nổi tiếng người Pháp Philippe Stern sắp xếp trật tự, niên đại và chia di tích Chăm Việt Nam thành 7 phong cách nghệ thuật mang tính liên tục theo quá trình tiến triển của các tháp Chăm như sau:
- Phong cách cổ thế kỷ VII đến thế kỷ VII.
- Phong cách Hoà Lai thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ IX.
- Phong cách Ðồng Dương nữa sau thế kỷ IX.
- Phong cách Mỹ Sơn A1 từ thế kỷ X đến thế kỷ XI.
- Phong cách chuyển tiếp giữa Mỹ Sơn và Bình Ðịnh từ thế kỷ XI đến thế kỷ XII.
- Phong cách Bình Ðịnh từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV.
- Phong cách muộn từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII.
* Một số hình ảnh khác tại di tích thánh địa Mỹ Sơn:
MỘT SỐ TÁC PHẨM TẠI thánh đia MỸ SƠN
THẦN SHIVA
MỘT GÓC CÒN SÓT LẠI CỦA NGÔI ĐỀN Ở thánh địa MỸ SƠN
Thánh địa Mỹ Sơn là một công trình kiến trúc vĩ tôn giáo vĩ đại của người Chăm, mang đầy đủ các đặc trưng, đặc sắc về kiến trúc, hoa văn, phong cách tháp…chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và giá trị kỹ thuật, phản ánh sinh động tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa Champa trong lịch sử văn hóa Đông Nam Á.Đến với di tích Mỹ Sơn chúng Tôi đã phần nào hiểu được cuộc sống cũng như nét văn hóa của người Chămpa xưa kia. Tận mắt thấy được những công trình vĩ đại, nền văn minh của người Champa đã để lại cho thế hệ sau này thông qua những tác phẩm điêu khắc, những ngôi tháp... nhờ đó mà chúng ta mới có được khu di tích Mỹ Sơn như ngày hôm nay.